Monday, January 31, 2022

MACVSOG Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam - Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (MACV-SOG)

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam - Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (MACV-SOG)
Chưa bao giờ được chỉ định huy hiệu hoặc bản vá chính thức, nhân viên SOG chấp nhận phù hiệu tự thiết kế không chính thức này
Hoạt độngngày 24 tháng 1 năm 1964 – ngày 1 tháng 5 năm 1972
Quốc giaUnited States
Phân loạiLực lượng đặc nhiệm chiến tranh độc nhất vô nhị
Chức năngStrategic Trinh sát, covert action, Chiến tranh tâm lý
Quy môLữ đoàn
Bộ chỉ huyThành phố Hồ Chí Minh (HQ)

Detachments:

Tên khácSOG, MACSOG
Linh vật"Old Blue"
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam
Thành tíchPresidential Unit Citation

MACVSOG (Millitary Assistance Command, Vietnam - Studies and Observation Group), tức Nhóm Nghiên cứu và Quan sát thuộc Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam là một đơn vị bán quân sự bí mật của quân đội Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Nhóm trực thuộc Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam - cơ quan chỉ huy toàn bộ quân đội Hoa Kỳ tai Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh. Nằm trong kế hoạch 34A (OPLAN 34A), một chương trình tham vọng của Lầu Năm Góc gồm các hoạt động bán quân sự nhằm quấy nhiễu, trừng phạt và cuối cùng là lật đổ chính phủ Hà Nội, SOG đã thực hiện một loạt các hoạt động ngầm chống phá Bắc Việt Nam trong suốt giai đoạn 1964-1972. 4 nhiệm vụ cơ bản của SOG là: cài cắm gián điệpbiệt kích xuống Bắc Việt Nam; tiến hành chiến tranh tâm lý; tiến hành các hoạt động ngăn chặn và quấy rối trên biển; và hoạt động thám báo chống phá đường mòn Hồ Chí Minh.

Hoàn cảnh ra đời

SOG ra đời trong hoàn cảnh Tổng thống Kennedy kêu gọi quân đội ngoài việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực với Liên Xô còn phải sẵn sàng khi ứng phó với dạng xung đột nhỏ – chiến tranh không quy ước - như tại Việt Nam. Dù Lầu Năm Góc cho rằng quân đội có đủ sức đối phó với chiến tranh không quy ước bằng các lực lượng thông thường, Kennedy vẫn không thỏa mãn và yêu cầu quân đội lập ra một lực lượng đặc biệt thực hiện các hoạt động ngầm, khiến cho Hà Nội phát điên giống như cái cách mà họ đang tiến hành tại Nam Việt Nam với người Mỹ. Giới quân sự phản đối, nhưng dưới sức ép của Nhà Trắng, SOG được thành lập. Tuy nhiên, sự không công nhận của quân đội đối với SOG đã khiến cho rất nhiều hoạt động của SOG bị hạn chế và đem lại thành công ít ỏi.

SOG thành lập ngày 24-1-1964 tại Sài Gòn bởi Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam MACV. Vào thời điểm mới thành lập, mọi nguồn lực, hoạt động, tổ chức của SOG đều bắt đầu từ con số không. Mặc dù được Nhà Trắng ủng hộ, SOG hầu như không nhận được sự hỗ trợ từ các lực lượng quân sự thông thường của Hoa Kỳ tại Việt Nam cũng như CIA. Phải mất 1 năm sau, các bộ phận của SOG mới được hoàn chỉnh tương đối, kết cấu thành một mạng lưới phức tạp và cồng kềnh.

Tổ chức, Lãnh đạo & Giám sát

Tổ chức

Tổ chức của SOG gồm hạt nhân là bốn bộ phận nghiệp vụ chính: Bộ phận cài cắm & chỉ đạo các hoạt động gián điệp OP34 mật danh Timberwork; Bộ phận hoạt động bán quân sự trên biển OP37 mật danh Plowman; Bộ phận hoạt động tâm lý chiến OP39 mật danh Hulidor; Bộ phận hoạt động thám báo chống phá đường mòn Hồ Chí Minh OP35 mật danh Shinning Brass. Ngoài ra, SOG còn có một số bộ phận hỗ trợ như: Bộ phận bay phối thuộc OP36, bộ phận hành chính & nhân sự OP10, bộ phận hậu cần OP40, bộ phận thông tin OP60, bộ phận tài vụ OP90 … SOG cùng đối tác Tổng nha kỹ thuật chiến lược Nam Việt Nam STD quản lý trại huấn luyện Long Thành.

Trong hoạt động thám báo trên đường mòn Hồ Chí Minh, SOG còn lập ra một số căn cứ hoạt động tiền tiêu (FOB) nằm rải rác trên lãnh thổ Nam Việt Nam để kiểm soát và hỗ trợ các toán biệt kích. Căn cứ quan trọng nhất của SOG là căn cứ hoạt động tiền tiêu Khâm Đức (Khe Sanh), nơi phụ trách gần một nửa các hoạt động biệt kích tại Lào. Ngoài ra, SOG còn có các cơ sở điều phối không lưu trong hoạt động đánh phá đường mòn, như ba Trung tâm chỉ huy phía Bắc CCN, phía Trung CCC và phía Nam CCS.

Lãnh đạo

Cấp tư lệnh chỉ huy của SOG luôn là một đại tá bộ binh Mỹ. Việc tư lệnh SOG không phải là một vị trí cấp tướng phản ánh đúng thái độ của giới quân sự tại Lầu Năm Góc: SOG không được coi là một bộ phận cấu thành chiến lược trong bộ máy chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Quân đội coi SOG là đứa con ghẻ do Nhà Trắng muốn họ lập ra. Tư lệnh SOG hầu như không có quan hệ rộng rãi tại Washington, và không được coi trọng tại Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam MACVHội đồng tham mưu trưởng liên quân. Điều này về sau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của SOG và là một yếu tố quyết định sự thành bại của tổ chức này.

Phó tư lệnh của SOG luôn là một sĩ quan không quân, nhưng không phải là người đang ở vị thế được thăng tiến – rất khó được lên cấp tướng. Cấp chỉ huy thứ ba tại SOG là một quan chức của CIA. Tuy nhiên, CIA chẳng mấy mặn mà với vai trò phụ giúp cho quân đội trong hoạt động ngầm. Vì vậy, viên phó CIA được cử sang SOG thường chủ yếu hoạt động tâm lý chiến – một lĩnh vực thường không được đề cao tại CIA.

Giám sát

Sự nhạy cảm trong các hoạt động mà SOG tiến hành mang lại khiến cho các nhà địa chính trị ở Washington lo ngại. Mặc dù hào hứng với kế hoạch nhằm gây rối chính phủ miền Bắc, các nhà hoạch định chính sách ở Nhà Trắng lại lo lắng rằng nếu các hoạt động của SOG bị lộ, Hoa Kỳ sẽ bị biến thành hình ảnh kẻ xâm lược khát máu đang cố lật đổ Bắc Việt Nam, điều mà họ luôn tuyên bố rằng không phải. Hơn nữa, sự thành công - nếu có - của SOG, sẽ gây ra tình hình bất ổn dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Hà Nội và khi đó, Trung Quốc có thể sẽ can thiệp. Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao không muốn có một Triều Tiên thứ hai. Do vậy họ quyết tâm kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của SOG, hạn chế bất cứ hành động nào có thể làm tổn hại đến hình ảnh và thanh danh của Hoa Kỳ. Tất cả các kế hoạch hoạt động của SOG đều phải trải qua một khâu kiểm duyệt công phu, gửi lên cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc, CIA và Bộ Ngoại giao trước khi có thể tiến hành. Và ở bất kỳ chỗ nào, kế hoạch đều có thể bị bác bỏ và trả lại, buộc SOG phải lập một kế hoạch mới. Sự cồng kềnh phức tạp này khiến cho rất nhiều các kế hoạch có triển vọng của SOG bị Washington bác bỏ, vì cho rằng "có khả năng gây tổn hại đến chiến lược chung" – chiến lược mà quân đội không coi SOG là một phần của nó. Ngoài ra, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân còn lập ra Văn phòng trợ lý đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt SACSA, với chức năng kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của SOG. Sĩ quan SACSA là người trực tiếp mang các bản kế hoạch của SOG qua các khâu kiểm duyệt tại Washington (Tuy nhiên, điều khôi hài là về sau này, SACSA lại đóng vai trò hỗ trợ cho SOG tại Washington, mặc dù mục đích ban đầu nó được lập ra để làm chậm lại chứ không phải ủng hộ cho sự phát triển của SOG).

Các giai đoạn hoạt động

Đối với từng bộ phận nghiệp vụ của SOG có một quá trình hoạt động khác nhau. Nếu như ba bộ phận cài cắm gián điệp OP34, hoạt động trên biển OP37 và hoạt động tâm lý chiến OP39 đều bắt đầu hoạt động từ năm 1964 khi SOG mới thành lập, và kết thúc vào năm 1968, khi Tổng thống Johnson ra lệnh ngừng toàn bộ chương trình hoạt động ngầm chống miền Bắc. Thì riêng bộ phận biệt kích & thám báo đường mòn Hồ Chí Minh OP35 đến năm 1965 mới chính thức hoạt động và kéo dài đến năm 1972, khi Hoa Kỳ rút khỏi chiến tranh.

Giai đoạn 1964-1968

Đây là giai đoạn mở đầu cho quá trình thành lập SOG, cũng là giai đoạn khó khăn nhất. Như đã nói ở phần trên, SOG không nhận được sự hỗ trợ tích cực của quân đội, nên buộc phải tự tìm kiếm nhân lực phục vụ cho mình. Ngay cả vậy, trong thành phần quân đội Hoa Kỳ lúc bấy giờ, không có nhiều nhân viên được huấn luyện về hoạt động đặc biệt cho các hoạt động của SOG. Sự khó khăn về nhân sự đã buộc SOG phải kiêm vai trò huấn luyện các sĩ quan trẻ nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm, giúp họ làm quen với các hoạt động của mình. Tuy nhiên, thời hạn công tác ở SOG là một năm, giống như các lực lượng khác ở Việt Nam. Điều đó gây khó khăn cho SOG, bởi mỗi nhân viên mới thường cần một năm để quen công tác. Do vậy thay vì hưởng lợi từ những sĩ quan mà mình đã đào tạo, SOG lại phải tiếp tục đào tạo một người mới.

Bộ phận gián điệp-biệt kích OP34

Trong 4 năm hoạt động, SOG đã tung vào miền Bắc gần 30 toán gián điệp-biệt kích, tổng cộng khoảng 250 người. Nếu kể cả số gián điệp đã được tung đi từ chương trình biệt kích của CIA mà SOG tiếp nhận, thì tổng số khoảng 500 người đã xâm nhập miền Bắc. Trong đó, chỉ có bốn toán gián điệp Eagle, Romeo, Hadley và Red Dragon của SOG và ba toán Tourbillon, Easy, Remus và một điệp viên đơn tuyến Ares của CIA được cho là vẫn còn hoạt động. Tuy nhiên, cách "thả tù mù" này, theo như cách gọi của các nhân viên OP34, tỏ ra không hiệu quả. Vào cuối năm 1967, chỉ huy OP34 Bob Kingston quyết định đánh giá lại toàn bộ chương trình hoạt động gián điệp-biệt kích của SOG với sự giúp đỡ của các chuyên gia CIADIA. Kết quả là một thảm họa: tất cả các toán mà SOG cho là còn hoạt động đều đã bị Hà Nội vô hiệu hóa từ lâu, và một số còn được sử dụng để chống lại SOG. Trên thực tế, 500 người đã được tung đi mà không một ai còn quay về.

Chương trình đánh lạc hướng (mật danh Forae): Mặc dù chương trình gián điệp-biệt kích đã sụp đổ sau khi trung tá Kingston quyết định ngưng mọi hoạt động, song các nhân viên của SOG nhận thấy chính phủ Hà Nội vẫn lo ngại về tình trạng gián điệp xâm nhập miền Bắc, và số gián điệp bị bắt giữ mà Hà Nội công bố lớn hơn con số điệp viên mà SOG đã tung đi. Điều đó khiến cho lãnh đạo SOG thích thú, và Kingston đã dựng nên một kế hoạch đánh lừa nhằm dựng nên một hệ thống hai mang chống lại Hà Nội. Dự án này gồm ba đề án chính làm cốt lõi: Borden, Urgency và Oodles, với nội dung cơ bản là dùng sự lo ngại của Hà Nội về hệ thống an ninh ở miền Bắc để gây rối loạn cho chính họ. Với một loạt các hoạt động nhỏ và bí mật, dự án Forae hy vọng sẽ làm Hà Nội phải giảm bớt nguồn lực để tăng cường an ninh cho miền Bắc, trong khi đáng nhẽ những nguồn lực này được tăng cường cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, tất cả kết thúc khi Tổng thống Hoa Kỳ Johnson ra lệnh ngừng các hoạt động chống miền Bắc vào năm 1968.

Bộ phận hoạt động trên biển OP37

Bộ phận cố vấn Hải quân phối thuộc (NAD) OP37, được thành lập tại Đà Nẵng năm 1964, với sự ủng hộ của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Bộ phận này thực hiện các hoạt động ngầm trên biển, đánh phá các cảng biển miền Bắc, quấy rối đường đi lại trên biển, phục kích và bắt giữ các tàu của Bắc Việt Nam và rải các tài liệu tâm lý chiến như truyền đơn… Hoạt động ngầm trên biển được Lầu Năm Góc cho rằng sẽ tạo ra hiệu quả lập tức tới Hà Nội, khiến chính phủ miền Bắc bị tổn thất và cuối cùng dẫn đến ngưng chiến tranh ở miền Nam. Dù được kỳ vọng như vậy, nhưng cuối cùng, hoạt động ngầm trên biển cũng như các bộ phận khác của SOG, do bị quá nhiều hạn chế, đã không thành công trong việc hoàn thành mục đích của mình.

OP37 sở hữu một số tàu tuần tiễu nhanh PTF gồm loại Nasty của Nauy và Swift của Hải quân để thực hiện nhiệm vụ. Đối tác của OP37 là Tổng nha kỹ thuật chiến lược STDcơ quan an ninh bờ biển CSS của Cộng Hòa Việt Nam. Các điệp vụ do các tàu của SOG thực hiện có hiệu quả ít ỏi và chỉ gây khó chịu qua loa cho chính phủ Hà Nội. Mặc dù các hoạt động này đã khiến chính phủ miền Bắc phải tăng cường nguồn lực bảo vệ bờ biển, song xét cuối cùng, thành công là không đánh kể. Hầu hết các tàu Bắc Việt Nam mà PTF đã phá hủy là tàu đánh cá của ngư dân, rất ít trong số đó là tàu vũ trang. Các hoạt động pháo kích, tập kích ven bờ cũng khó khăn khi miền Bắc triển khai pháo bảo vệ bờ biển. Hoạt động của OP37 do đó tiếp tục bị thu hẹp dần. Cuối cùng, ngày 1-11-1968, do chính sách của Tổng thống Johnson, toàn bộ các hoạt động trên vĩ tuyến 17 đều bị ngưng lại, và OP37 ngừng hoạt động.

Bộ phận tâm lý chiến OP39

Bộ phận chiến tranh tâm lý OP39 của SOG được thành lập năm 1964, với mục đích là nhằm cho Hà Nội tin rằng họ có vấn đề về an ninh nội bộ, từ đó giảm dần nguồn lực bổ sung cho chiến trường miền Nam và cuối cùng là kết thúc chiến tranh. Để thực hiện mục tiêu này, OP39 đã có một loạt các hoạt động: lập ra phong trào chống đối giả tạo Gươm Thiêng Ái Quốc (SSPL), lập đài phát thanh tuyên truyền, rải truyền đơn và gói quà ra miền Bắc… nhằm thu phục dân chúng miền Bắc. Tuy vậy, giới chức Washington e ngại rằng nếu như quá mức, chính phủ Hà Nội có thể sụp đổ và Trung Quốc sẽ can thiệp. Sự ám ảnh đó đã khiến Washington cấm SOG hình thành một phong trào chống đối "thực sự" tại miền Bắc với mục tiêu lật đổ Hà Nội. Khôi hài là đây lại là mục tiêu chính mà các chỉ huy của SOG hướng tới cho chương trình tâm lý chiến. Khi hoạt động nghiêm túc nhất đã bị cấm, mọi hoạt động khác của OP39 đều không mang lại hiệu quả to lớn. Điều này không được thay đổi trong những năm tiếp theo, mặc dù các sếp của SOG đã cố gắng khai thông tại Washington dọn đường cho mục tiêu lớn nhất của họ. Cuối cùng, cũng với OP34 và OP37, bộ phận tâm lý chiến OP39 đã chấm dứt hoạt động cuối năm 1968 theo lệnh của Tổng thống Johnson

Bộ phận biệt kích & thám báo OP35

Đây là bộ phận lớn nhất của SOG, cũng là bộ phận thành công nhất trong các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. OP35 tập trung vào việc tung các toán thám báo-biệt kích chống phá đường mòn Hồ Chí Minh, con đường vận tải huyết mạch của miền Bắc cho cuộc chiến tại miền Nam. Địa bàn hoạt động của OP35 lấn cả sang Lào, và đến năm 1967 mở rộng sang Campuchia. Các toán thám báo của OP35 có nhiệm vụ quan sát và phát hiện ra vị trí đóng quân của các đơn vị bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam, các kho hàng lương thực, xăng dầu… tập trung trên đường mòn Hồ Chí Minh, rồi chỉ điểm cho máy bay đến ném bom. Đây là hoạt động hết sức nguy hiểm và táo bạo. Mỗi toán thám báo thường gồm 3 nhân viên người Mỹ và 9 lính người dân tộc. Độ nhạy cảm cao do lo sợ việc lính Mỹ bị bắt khiến Washington mà điển hình là Bộ Ngoại giao, ngăn cấm việc SOG cho phép OP35 vào Lào trong suốt năm 1964. CIA cũng không muốn SOG vào Lào, bởi họ coi Lào là địa bàn hoạt động của riêng họ. Bước sang năm 1965, sự đấu tranh của SOG tại Washington, cộng với sự ủng hộ hiếm hoi của Lầu Năm Góc đã khiến Bộ Ngoại giao và CIA mất dần thế thượng phong trong việc cấm đoán SOG. Sở dĩ giới quân sự ủng hộ SOG vì quân đội rất cần các hoạt động thám báo như vậy trên đường mòn Hồ Chí Minh để giúp họ có được bức tranh tổng thể về chiến lược chiến tranh của miền Bắc tại Nam Việt Nam. Mặc dù nhượng bộ cho SOG được phép tung các toán thám báo vào Lào, Bộ Ngoại giao vẫn đặt ra một loạt các quy định khắt khe về giới hạn xâm nhập của các toán thám báo của SOG, và mọi kế hoạch của OP35 đều phải được báo trước cho Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Viên Chăn trước khi thực hiện. Bất chấp các hạn chế như vậy, OP35 có được sự thành công ban đầu. Trong những năm 1965-1967, các toán thám báo xâm nhập đường mòn đã phát hiện ra rất nhiều mục tiêu của QĐNDVN tại Lào và chỉ điểm cho máy bay đến ném bom, khiến cho Hà Nội bị bất ngờ và thiệt hại. Với trung bình 90 điệp vụ trong mỗi tháng, OP35 tỏ ra thực sự hiệu quả và được sự ủng hộ rất lớn của MACVBộ tư lệnh Thái Bình Dương. Năm 1967, hoạt động thám báo của SOG được mở rộng sang Campuchia, xâm nhập và phát hiện các mục tiêu của Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam.

Giai đoạn 1968-1972

Đây là giai đoạn mà SOG chỉ còn bộ phận nghiệp vụ thám báo và biệt kích OP35 là còn hoạt động. Các điệp vụ thám báo tiếp tục được mở rộng trên khắp đường mòn Hồ Chí Minh, gây khó khăn cho QĐNDVN và buộc miền Bắc phải cử lại một số lượng lớn bộ đội ở lại bảo vệ đường mòn. Dù đã có những thành công ban đầu, song dần dần, với việc Hà Nội bắt đầu tìm hiểu và nắm bắt được các quy luật hoạt động của OP35, thì các toán thám báo trở nên khó khăn hơn trong việc xâm nhập vào đường mòn. Một loạt các biện pháp an ninh cấp thấp nhưng rất hiệu quả của QĐNDVN đã được triển khai nhằm chống lại các toán thám báo xâm nhập, tạo nên một hệ thống an ninh tầng lớp dày đặc. Trong những năm 1968-1969, hầu hết các toán thám báo đều chỉ xâm nhập được trong một thời gian ngắn, sau đó phải rút ra khi bị tấn công. Một số toán bị tấn công mãnh liệt và thương vong nặng nề. Lúc này, QĐNDVN đã triển khai một lực lượng chuyên tìm diệt các toán thám báo của SOG, gọi là lực lượng đặc công chống biệt kích. Các toán thám báo SOG gặp phải lực lượng này thường bị tiêu diệt không thương xót. Tỉ lệ thương vong của OP35 tăng lên theo thời gian. Năm 1969 tỉ lệ này đối với thám báo viên người Mỹ là 50% cho một điệp vụ, và tăng dần trong các năm tiếp theo. Đến năm 1970, khi Tổng thống Nixon bắt đầu rút dần lính Mỹ ra khỏi Việt Nam, lực lượng của SOG hầu như không bị ảnh hưởng. Các hoạt động thám báo tiếp tục nhộn nhịp, và SOG cung cấp cho MACV những chứng cứ có giá trị về việc miền Bắc mở rộng vùng ngã ba biên giới thành con đường vận tải chuyển quân và thiết bị vào chiến trường miền Nam. Trong bối cảnh lính Mỹ rút dần khỏi chiến tranh, đây những tin tức rất có giá trị với quân đội. Tuy nhiên, cũng với đó là cái giá phải trả rất lớn: nhiều thám báo viên Mỹ đã thiệt mạng trong các cuộc giao tranh với bộ đội miền Bắc. Các toán thám báo tuy nhận được sự hỗ trợ về không quân rất lớn nhưng vẫn bị tấn công và tổn thất. Những tháng cuối cùng của năm 1971, SOG tiếp tục chiến đấu "khi những người Mỹ khác đã về nhà". Tuy nhiên, sau chiến dịch Lam Sơn 719, địa bàn hoạt động của SOG bị mất khá nhiều khi Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công miền Bắc của Nam Việt Nam. Cuối cùng, cũng với việc quân đội Hoa Kỳ rút hoàn toàn ra khỏi chiến tranh Việt Nam, SOG chính thức chấm dứt hoạt động. SOG giải thể ngày 30-4-1972 theo lệnh của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ

Các sĩ quan từng phục vụ SOG

  • Tư lệnh:
    • Đại tá Clyde Russell
    • Đại tá Don Blackburn
    • Đại tá Jack Singlaub
    • Đại tá Steve Cavanaugh
    • Đại tá Jack Isler
    • Đại tá Skip Sadler
  • Phó tư lệnh:
    • Trung tá Edward Partain
  • Các bộ phận nghiệp vụ của SOG
  • OP34
    • Chỉ huy
      • Trung tá Edward Partain
      • Trung tá Reginald Woolard
      • Trung tá Robert McLane
      • Trung tá Robert McKnight
      • Trung tá Bob Kingston
    • Phó chỉ huy
      • Thiếu tá Pete Hayes
      • Thiếu tá John Hada
  • OP37
    • Chỉ huy
      • Jack Owens
      • Bob Fay
      • William Hawkins
      • Norman Olson
      • Andrew Merget
    • Phó chỉ huy
      • Trung tá Robert Terry
      • Trung tá Mick Trainor
      • Trung tá Wesley Rice
  • OP39
    • Chỉ huy
      • Trung tá Herbert Weisshart
      • Trung tá Martin Marden
      • Trung tá Robert Bartelt
      • Trung tá Albert Mathwin
      • Trung tá Thomas Bowen
      • Trung tá Louis Bush
  • OP35 (tất cả các chỉ huy trưởng của SOG đều tham gia chỉ huy OP35)
    • Chỉ huy
      • Đại tá Arthur Simon
      • Đại tá Bill Johnson
      • Đại tá Dan Schungel
      • Đại tá Roger Pezzelles
    • Phó chỉ huy
      • Trung tá Raymond Call
      • Trung tá Jonathan Carney
      • Trung tá Larry Trapp

Thursday, January 27, 2022

On this day in U.S. Army SOF history.......27 January 1945

On this day in U.S. Army SOF history.......27 January 1945 – Two teams of Alamo Scouts conducted a reconnaissance of the Cabanatuan prison camp in preparation for the "Great Raid" two days later.

The Alamo Scouts was a reconnaissance unit of the Sixth United States Army in the Pacific Theater of Operations during World War II. The scouts often operated deep behind Japanese lines.

---Mud

 

In 1968, every MACV-SOG recon man was wounded at least once, and about half were killed

MACV-SOG Recon Team Operator Bob Graham and comrades preparing for an operation, Ban Me Thuot, 1970. Bob Graham a Canadian bow hunter who joined the US Special Forces MACVSOG and carried his 55-lb draw weight personal bow into operations in Cambodia during the Vietnam War.

MACV-SOG recon casualties exceeded 100 percent, the highest sustained American loss rate since the Civil War. In 1968, every MACV-SOG recon man was wounded at least once, and about half were killed. But despite such high losses, MACV-SOG boasted the highest “kill ratio” in U.S. military history, topping out at 158-to-1 in 1970.
The Giant Killer book & page honors these incredible war heroes making sure their stories of valor and sacrifice are never forgotten. The book which features the incredible life of the smallest soldier, Green Beret Captain Richard Flaherty and several of the other heroes featured on this page is available on Amazon & Walmart. God Bless our Vets!

Chuyến đi đặt (( bom )) phá cầu chận tanks của Cộng Sản (BK Lê Thanh Xuân Đoàn 11)

 Khóa Dù tháng 4 năm 72 TTHL Yên Thế Long Thành

Chào anh chị em hôm nay rảnh rỗi nói chuyện củ đọc anh chị em nào đọc xong viết đôi lời phê bình cho vui xóm làng, nếu chê trách thì càng tốt vì tôi chưa bao giờ viết chuyến nhảy hành quân này, dù rằng có đôi lần đấu láo trên bàn nhậu, hôm nay tôi muốn viết là để cho những ai đó biết trong trận ((Bình - Long An-Lộc)) N K T có góp một vài viên đạn hay không ??? . Có thể 99% không ai biết gì cả vì trong trận chiến đó mỗi ngày c s bắn cả ngàn trái họa tiền vào An-Lộc thì nếu có một vài toán của Đ 11 thì như muối bỏ biển. Xin thưa là tiếng ((mìn)) của NKT Đ 11 đã nổ trước đó một tháng và sau đó 2 bên ta và địch có cả mấy sư đoàn đánh nhau, vùng rừng sông suối bên Miên, Lào là 2 trận địa mà Đ 11 mất rất nhiều anh em và cả bên S L L cũng bị rất nặng.

     Đến đây tôi phải xin nói vòng vo ((tam quốc)) vì có sự liên quan tới đoạn kết của tất cả những chuyến nhảy hành quân B K của tôi, xin thưa tôi đam mê lính B K từ khi còn ở tuổi trung học, vì thế hệ của tôi lớn lên sau đệ nhị thế chiến mà nước VN đang ở lúc giao thời của Pháp chưa rút hết khỏi VN , mà người Mỹ mới bước một ((1)) chân vào VN , từ văn hoá, kinh tế, quân sự, giáo dục, giải trí, sách báo, âm nhạc, cinema, phương tiện giao thông….và cũng thời gian này bọn c s nằm vùng cũng bắt đầu hoạt động. 
    Tôi ở tuổi mới lớn còn ở tiểu học thì làng sóng một triệu người miền Bắc di cư vào sống khắp miền nam tự do, nơi tỉnh thành của tôi có nhà thờ công giáo rất lớn, hàng ngày hay hàng tuần có rất nhiều người di cư đi dự lể ở nhà thờ và cũng là nơi rất gần trường học của tôi, hàng ngày tôi vẩn thấy có những xe chở quần áo, gạo, thức ăn lon hộp ….. luôn luôn có hình cờ Mỹ và hình 2 cánh tay Việt Mỹ bắt tay nhau. Họ phát tất cả những ai có mặt kể cả tôi, kèm theo thực phẩm luôn có báo tiếng Việt của người Mỹ phát hành. Ngoài ra cứ một vài tuần họ có chiếc xe ((van)) có 2 cái loa lớn cứ hôm nào họ chạy khắp thành phố họ nói cho biết địa điểm để tối chiếu phim, tất cả lũ nhóc chúng tôi là mê củ tỉ. 
     Cũng nhờ nhiều năm tháng xem cine, đọc sách báo tin tức của Mỹ mãi vài năm sau tôi xem có thể rất nhiều phim ở rạp của Sài Gòn, gần như tất cả phim ảnh thời đó nói tiếng Pháp nhưng thật ra đó là phim 100% của Mỹ nhưng Pháp du nhập vào VN. Vì là chiến tranh thế giới vừa kết thúc nên có rất nhiều phim về chiến tranh thì tôi không bỏ xót một phim nào, nhất tất cả những phim về B K và nó đã thấm và xâm nhập vào tâm hồn của tôi. Les canons de (( Navarone ?? )) , Les heroes sand ((returned ??? )).   The longest days , The mon ((namies)) …..vì là tiếng Pháp học lâu ngày không xài tôi quên.
       Tất cả những gì của Mỹ nó đã ăn sâu vào máu huyết tâm hồn của tôi, tôi không xa rời được sách báo phim ảnh, nhạc của Mỹ…. dù rằng tiếng Anh và Pháp tôi cũng có học …..nhưng cùng thời gian đó thì xã hội VN thỉnh thoảng c s vẩn bắt cóc nhiều người, nhất là ở hạ tầng cơ sở, nhiều nhất là những người trưởng ấp hay xã trưởng, những quan chức địa phương…. thường hay bị bỏ chúng bắt cóc cho đi ((mò tôm)) thả trôi sông cảnh cáo những người khác không nên hợp tác làm việc với Chánh quyền T T Ngô-Đình-Diệm  ….những tội ác của c s thì tôi đã nhìn thấy từ nhỏ, nhất ba má tôi có 2 chiếc đò nhỏ chạy chở khách đi trong những quận nhỏ, nhờ đó cũng là lợi tức nuôi gia đình, đến một hôm ba má tôi được cảnh sát địa phương báo cho biết hồi sáng sớm bị c s chận lại đuổi hết hành khách xuống và họ đã phóng hỏa rất nhiều xe trong đó có 2 xe của nhà tôi.
     Từ đó tôi lớn lên cảnh gia đình nghèo túng vì tài sản gia đình không còn, mà ngoài tôi ra còn 5, 6 đứa em nửa và đó là lý do tôi muốn đi làm để có tiền giúp gia đình, dể nhất là vào lính, nhưng tôi thấy lính của VNCH thì quá nghèo nhất là thấy khẩu súng ((garant)) thì Tôi phát khiếp. 
    Mà tôi thì mê B K và tôi rất mê tất cả những gì của Mỹ, tôi quyết định đi lính B K nhất là lãnh nhiều tiền, ăn uống dư thừa, phương tiện đầy đủ, còn chuyện chết thì lính nào đụng trận cũng có thể chết, nhưng B K thi vẩn hơn nhất là làm B K đánh trận thì không phải làm bưng bô cho ai, tánh tôi chỉ thích đứng thẳng cái lưng. 
     Làm sao để làm một tên B K và để sống còn mới là quan trọng, vì trong tất cả binh chủng thì B K là thứ lính khi đụng trận nếu có 1 sai lầm thì xem như không còn cơ hội để học lại, đi một toán thường 4 hay 5 người chỉ cần 1 người sai lầm là coi như chết hết hay bị bắt hết. Làm B K không dể nhưng đa số anh em xem thường những động tác, những cử chỉ, những thói quen, …. từ cái ho , tiếng ợ, hay là điếu thuốc, tánh ẩu bất cẩn, cách uống nước, tánh ngan bướng , tánh tự tôn , làm liều, không có tình đồng đội……những tánh tật đó phải học luyện tập ….người B K chết thường là bị những tánh tật đó. 
     Với tôi trong đơn vị được bổ sung quân số, thường không nhiều 4 hay 5 chuẩn uý, hay vài tháng có khoảng dưới 30 hạ sĩ quan…. không nói ra nhưng đời sống sinh hoạt anh em hàng ngày, ngoài khi đi hành quân những lúc cà phê hay ăn uống hàng ngày tôi cố tình âm thầm quan sát và để ý tánh tật từng người một, tôi không ghét ai hết, nhưng tôi biết là khi vô rừng tôi phải thích ứng từng cá nhân là để cả toán đi và được trở về đầy đủ. 
    Có những anh vừa về đơn vị vài ngày là tỏ ra ta đây là anh hùng qua đêm rồi, có anh uống một vài lon là nhìn xung quanh chỉ là con kiến, có vài anh mỗi bước chân đi như là voi đi , vô rừng đi với anh này 99% không có ngày về, có anh ngủ ngái như gọi đò, có anh hút thuốc còn đang cháy búng khắp nơi…… tôi còn sống đến ngày hôm nay là Trời che chở và cũng nhờ biết tánh tật từng anh em để nhắc nhở họ không phải là muốn làm anh mà là để bảo vệ chung cả toán.

 
     Tôi biết tánh tật của anh em cũng chưa đủ , mà tôi phải biết áp dụng nghệ thuật cho từng người mà thuyết phục để họ không chạm tự ái, nhất là đối với sỉ quan thì tôi luôn tế nhị là kéo họ làm theo hiểu biết của tôi mà họ vui vẻ làm và không tự ái , nhất đối với thiếu uý Phạm Ngợi vì ảnh là nổi tiếng trong anh em , ảnh là (( trâu điên )) gặp là húc là nổ súng mà không cần biết hậu quả, đó tối kỵ trong nghề B K.
  Xin lỗi đả mỏi mắt rồi Part 1 tới đây tạm stop, xin hẹn nay mai viết tiếp phần part 2 là toán trưởng thiếu uý Phạm Ngợi, anh Dưỡng ((đen ở New York)) , anh siêu tầng số PRC-64, anh máy PRC-25 và tôi …..chúng tôi và mục tiêu …chuẩn bị đem ((mìn )) cho nổ phá cây cầu cuối cùng của quốc lộ 13 để làm chậm đường tiến quân của c s, lúc đó chúng tôi đã nhìn rất rõ ít nhất cả tiểu đoàn c s đóng quân trong rừng cao su, cây cầu đó bị mìn nổ phá một phần, vì sau một thời gian cố vấn Mỹ có cho chúng tôi xem không ảnh. Xin những ai cười chê B K Đ11 xin xét lại, một chuyến hành quân mà gần 50 năm qua tôi giử im lặng vì chúng tôi cũng chỉ là con người tầm thường mà thôi.
            Jan 27-2022   1:10 AM

Wednesday, January 19, 2022

Gần Tết....Ông Tám đi uống Trà. - Ô Tám Đoàn 1/SLL

Chiều nay, gió Đông về. Nhân dịp Bà sai đi lấy thuốc ở nhà thuốc tây. Chạy "xẹt" về Nhà sách Tự Lực "chém gió" một chút cho đời nó vui. Đề tài, hôm nay là "chém gió về Trà". Người như tui, nói chuyện Trà chẳng mấy ai nghe. Cũng chẳng ai biết, 20 năm rồi, tui không uống nước lạnh. Sáng Trà nóng, trưa Trà kho, chiều Trà đá. Đến nỗi, có lúc bà tui giận quá. " ông uống thuốc với Trà, thuốc nó không còn công hiệu". Nhưng....Ta đây vẫn thế. Thuốc với Trà cứ thế mà vào bụng. Thuốc có work hay không.....Đó là chuyện của thuốc.

Cũng tại bữa hổm. Ông chủ Nhà Sách Tự Lực có "thưởng cho một gói Trà "High Mountain Tea" của Đài Loan kêu tui về uống thử. Nguyên nhân, tui cũng là người thử Trà của ông cụ Tự Lực đã nhiều năm rồi. Uống xong ....Trà dở, Trà ngon, Trà ương ương. Tui cho điểm. Thấy cũng vui, nên nhiều năm rồi, tui là kẻ thử Trà. Còn ổng buôn bán ra sao. Có đắt hàng không, Tui không hề hay biết. Vì vậy, gói Trà high mountain Tea này sau khi uống xong. Tôi gởi tin nhắn "không thích". Ở đây, tui không nói đến giá cả. Tuy vậy, ai cũng biết. Thú uống Trà không hề rẻ. Vài trăm đô một tháng là chuyện thường tình. Cho những ai "lỡ nghiện thú uống Trà".
Vừa thấy cái bản mặt khó ưa của tui. Ông chủ bán Trà nhìn tui "không thiện cảm".
- Vào đây, tớ pha Trà đó, anh uống lại xem sao.
À....Thì ra, ông chủ đang muốn nói tui không biết pha Trà.
Ở đây, cũng xin nhắc thoáng qua nghệ thuật pha Trà chút xíu. Trà thì cũng tùy theo loại mà nấu nước sôi. Chẳng ai nấu Trà bằng vòi nước uống trong bếp. Có loại Trà cần 100 độ, nhưng cũng có Trà chỉ cần nước chưa sôi. Lúc tui qua Trung Quốc, đến một làng Trà ở tỉnh Phúc Kiến. Anh đạp xe 3 bánh cũng thành thạo pha Trà. Trên xe lò Gas, bếp cồn. Ấm nước đầy đủ. Hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng thấy người dân uống Trà. Chỉ khác nhau là Trà ngon hay Trà dở. Chưa nói, còn phải theo mùa. Năm nào sương mù, gió lạnh ít. Trà hiếm và không ngon. Trời chưa lên đèn. Lưng chưng núi đã sương mù dầy đặc. Câu nói "một ngọn 2 lá" đứa con nít lên 5 cũng biết.
Quay lại, ông chủ Tự Lực sau khi pha Trà với bài bản đầy đủ, chuyên nghiệp. Ông rót cho tui 1 ly. Đưa lên hửi, tận hưởng hương thơm của Trà mới pha. Lẳng lặng làm một hớp nho nhỏ. Chờ hớp Trà trôi qua cổ, thưởng thức cái thơm, cái vị của hớp Trà. Tui nhẹ nhàng phán.
- Có ngon hơn, có thơm hơn. Nhưng không phải là Trà ngon như ý tui muốn.
Bên cạnh tui còn có anh Mai Tuấn. Một người làm Truyền Hình lâu năm. Anh nhẹ nhàng cười, dù rằng "có thể " đã không đồng ý với nhận xét của tui. Vỗ vai anh Mai Tuấn tui vừa cười, vừa nói.
- Nhiều năm về trước. Tôi có anh bạn cùng đơn vị Nha Kỹ Thuật. Anh bị mù mắt trong chiến tranh. Di chuyển khó khăn vì không lái được xe. Anh lại có cái tính "gặp ai cũng chửi". Anh thích thế. Nên anh gần như không có bạn. Ở trong nhà mãi cuồng chân. Mỗi lần tui lên thăm, dắt anh đi ăn Hủ tíu Mì chém gió. Anh vui và thích vô cùng. Nhưng dạo ấy, tui cũng nghèo. Nhiều khi cả tháng, mới chở anh "hóng gió" một lần. Lúc tui mở tiệm làm ăn. Ế ơi là ế. Cả ngày ngồi chờ khách "như Chó chực xương". Nhờ có anh ôm điện thoại tán dóc 4 hay 5 tiếng một ngày. Tui mới giết được thời gian.
Có một lúc, nói chuyện thời sự. Anh cứ nói càng, nói trật lất. Tui cự nự. Bị anh phán lại rằng.
- Một ngày, tao với mày nói chuyện 4 hay 5 tiếng. Đề tài cạn dần. Nói gì bây giờ. Tao không phang ngang, bửa củi cho mày cãi. Mày trợn mắt chứng minh tùm lum là tao sai. Thì nói chuyện gì bây giờ. Kể từ hôm nay. Tao cho mày biết rằng.....Khi tao nói là phải đúng. Nói không đúng thì tao nói làm gì.....Hiểu chưa cái thằng kia.
Anh Mai Tuấn bắt tay tui cười. Ông chủ nhà sách Tự Lực đưa tui gói Trà mới về cho tui thử. Thế là "Ý đắc, tâm đắc". Tui cầm bịch Trà mới lên xe ra về mà lòng thơi thới hân hoan.

Ông Tám. Đoàn 1/SLL.

Monday, January 17, 2022

No money, no talk. / Thuận Nguyễn

Nhân khi đọc lời nhắn và lời tự thú trước bình minh của Đặng công Luận tôi bật cười lý thú vì tư tưởng ngộ nghĩnh “tôi còn nợ TH NKT nên không dám có ý kiến”
Ủa, TH có cho mượn nợ sao tôi không biết để mượn nhỉ? Luận mượn khi nào vậy và bao nhiêu?
Rồi bị nợ nên không dám có ý kiến, vậy ý kiến về chuyện gì mà to tát dữ vậy bạn?
Rồi còn muốn biết danh sách ai đã đóng cho quỷ Tổng Hội NKT năm 2021, biết để làm gì, báo cáo ai với cái danh sách đó?
Thôi nói cho vui vậy thôi.
Chuyện tôi muốn nói là như thế này:

Thủa xa xưa ấy, có sự râm rang bàn tán trong anh em NKT rằng không đóng niên liễm thì không được có ý kiến, không được ứng cử THT.

Thời đó có một “thế lực” muốn cản chân Phạm Hòa vì hiểu lầm, vì chưa đánh giá đúng về việc làm của Phạm Hòa, vì nhập nhằng giữa "con người" và "việc làm" của Phạm Hòa, cộng thêm sự đố kỵ, ganh ghét của một nhóm anh em trong tập thể NKT đối với Phạm Hòa nên đã rêu rao rằng “no money, no talk” nhầm không cho Phạm Hòa ứng cử THT.

Tôi nghĩ ở đây có một sự thao túng trong tập thể NKT, vùi dập những người có thiện chí phục vụ anh em của một nhóm nhỏ mà không ai nhận ra hay là có nhận ra mà không dám lên tiếng, chỉ bực mình, ngứa miệng nói oang oang ngoài bàn dân thiên hạ nhưng khi bảo cho ý kiến trên diễn đàn để rộng đường dư luận thì im re, vì không muốn đụng chạm và sợ bị đụng chạm.

Nhìn xa hơn về quê hương, sự cam chịu của dân VN hiện thời đã tự đày đọa mình hơn nữa thế kỷ qua, làm sao để thoát ra sự im lặng đó?
Cách đây vài năm, tôi nhận thấy rằng quỹ TH được sử dụng cứng ngắt, hình như có ai đó muốn thấy lu gạo cứ còn đầy, hằng ngày ngắm nghía, phân phát nhỏ giọt khi có người kêu cứu, muốn được thấy ta là quan trọng vì tay hòm chìa khóa mà quên rằng những sơ cứu ban đầu rất quan trọng, bất mãn về những chuyện như vậy nên tôi tuyên bố ngừng đóng niên liễm trong khi trước đó tôi đã đóng niên liễm một cách chăm chỉ, và tôi chờ khi nào quỹ hao hụt nhiều tôi sẽ đóng một lần, hay là mười năm sau tôi đóng một lần, ($600)
Trong anh chị em ta có rất nhiều người chưa đóng niên liễm, chưa đóng, không phải là không đóng, vậy thì nói rằng không đóng là không đúng.
Những người ngoài NKT mới không đóng niên liễm cho NKT, chuyện đương nhiên, nhưng anh em NKT thì khác, tôi sẽ nói về cái khác này lần sau.

Vậy, quan điểm No money no talk có còn đứng vững không, có ai dám bịt miệng những anh em không đóng niên liễm hay không, đưa tay lên coi nào. Muốn nói gì cứ nói đi Luận, miễn là nói mà không ai phản biện được, không ai cấm bạn đưa ý kiến đâu.
Nói đi, có ý kiến đi, làm cho không khí sinh hoạt của TH NKT sinh động hơn đi, há chẳng phải là vui hay sao?

Tôi biết rằng có một tư tưởng “lùn” muốn nhắc lại chuyện không đóng tiền thì không được có ý kiến, nhầm bịt miệng người khác, hãy ngẩng cao đầu lên một lần để thấy ta được trân trọng, và tất cả mọi người đều được trân trọng như nhau, tiền bạc là ngoại thân, con người là vốn quý, tại sao đem đồng tiền để hạ phẩm giá người khác và chính mình.

Thật đáng buồn với tư tưởng cho rằng mình chưa kịp đóng niên liễm đành cam chịu cúi đầu câm nín, chờ đến khi đóng tiền rồi mới dám mở miệng, trong khi đó cái tập thể mà mình đang sinh hoạt là anh em đồng đội của mình.
Thử hỏi anh em nào mà thấy tiền trước khi thấy ta thì còn gì là anh em, phải không?
Chúc anh chị em và Luận có một mùa Xuân ấm áp.

Thuận, Dallas-Fort worth/Texas



5 chiến hữu 3 người đã ra đi 
 






Đoàn 71 chụp hình lưu niệm tại Đại Hội 5 NKT Washington State
Trong 8 anh em chỉ còn là 4 người quân số hao hụt 50%

Tất Niên Ở Bển....

Sáng chủ nhật ngày 16. Một nhóm dân Nha Kỹ Thuật ở Sài Gòn hẹn nhau đi "ăn Tất Niên." Ở một góc đường. Mỗi anh 1 ly cafe, trị giá 15,000 tiền ở bển. Cũng ngại Covid đấy. Nhưng thôi, cả năm gặp nhau một lần. Không biết....Sang năm còn có thể gặp lại nhau nữa hay không. Thôi thì cứ gặp vậy.

Chuyện anh Duyệt dân Đoàn 1/SLL bị nhà thương "chê". Cho về nhà, chờ ngày ấy. Anh em đem ra bàn. "đi thăm hay không đi". Cái khó nó vẫn bó cái khôn. Chi phí không có. Rồi ít bữa, anh Duyệt "đi luôn thiệt. Tiền đâu...Rồi cả đám quyết định không đi. Thương thì thương. Nhưng....Đi không được. Năm nay, khó khăn nhất. Tiền không tìm ra. Ai cũng phải "nín thở qua sông."

Mấy năm trước. EF còn. Hàng năm vẫn làm "cái bang" xin tiền anh em hải ngoại. Có bị mắng mỏ chút đỉnh, nhưng "tình lờ". Miễn anh em bên đó vui xuân. Cứ coi như Đại Hội Nha Kỹ Thuật ở VN đi. Mấy anh có dịp gặp nhau, nhắc chuyện quá khứ, nói cho đã, dù chuyện nhiều khi đã nhắc lại mấy chục năm rồi. Mọi người nói cho đã, vì có thể, có một ngày muốn nói cũng nói không được như anh Duyệt hôm nay.

Những người Lính già ở VN rất biết phận. Tìm nhau, dù chỉ là 1 ly cafe 15 nghìn.
Cao Sơn Đoàn 1 SLL 

Sunday, January 16, 2022

Xin trợ giúp khẩn cấp cho anh em bên VN khi rất cần

Kính gởi anh Bá.

Chuyện giúp đở anh em thông qua quỹ TH trước đây từ $100 đến $150 toàn là do BCH tự bàn bạc và quyết định không hỏi ý kiến của tất cả toàn anh em, và vì hoàn cảnh vật giá lúc bấy giờ không dao động mấy nên anh em lặng thinh và không có ý kiến gì.

Bây giờ thì khác rồi, anh Hoàng đi ăn phở với vợ và hai con, bốn tô phở, hai ly cà phê mà bay mất gần trăm đô la chưa có típ.

Đó là bên Mỹ, Việt Nam thì khác xa, $150 không đụng tới được giường bịnh viện, chắc là anh biết điều đó.

Anh nói rằng ý kiến một vài cá nhân thì phải đợi ĐH tới, vậy:

 Xin hỏi anh: nếu ngày mai có anh em nào bên VN nguy ngập, với tiền ứng trước $150 như xưa nay thì sẽ làm được gì?

Xin hỏi anh, với cương vị THT, anh không thể tự quyết định điều gì ư?, ví dụ như ra một thông báo rằng đồng thuận chi $300 rồi chờ đến khi có BCH mới sẽ điều chỉnh hay giữ nguyên thông tư của anh, điều chỉnh thì cũng dể mà, phải không anh Bá?

Tôi nhận thấy anh em bên VN gặp hiễm nghèo cần sự ứng cứu tức thì, nhanh chóng, không vấp trường hợp như vừa qua, cái đau khổ là không nhận được sự quan tâm của anh em mình trước khi chết. Người chết thì cũng đã chết rồi, nhưng người sống ân hận khôn nguôi, phải không anh?

Mấy tháng nữa mới đến ĐH, nhưng không ai có thể ngờ ngày mai chuyện gì sẽ đến.

Xin hỏi anh: từ đây đến ngày đó, anh làm thế nào để lấy được ý kiến đa số về sự đồng thuận hay phản đối.

Anh em NKT luôn luôn quan tâm nhau, tôi chắc chắn rằng khi quỹ TH vơi đi thì anh em sẽ tự khắc đóng vào.

Tôi cũng nghĩ nên mạnh tay giúp anh em khi khẩn cấp hơn là ngồi nhìn đồng tiến vơi đi mà lo lắng quá mức, trong thực tế anh em Hải ngoại lúc nào cũng chung tay khi có lời kêu gọi.

Tất cả chúng ta đã ở vào những ngày cuối của cuộc đời, tôi không ngần ngại để phản biện những điều tôi cho là chưa đúng và cũng sẵn sàng đón nhận ý kiến khác mình một cách vui vẻ.

Và bây giờ tôi cũng xin giúp anh lấy ý kiến toàn thể anh em NKT trong nước và hải ngoại:


Nếu có ai phản đối chuyện tôi xin thêm
$150 cho đủ $300, cho anh em VN khi có trường hợp hiểm nghèo, nguy cấp thì xin đưa tay bằng cách nhắn tin vô diển đàn cho anh em biết.

 

Sau một tuần tính từ hôm nay. 01/16/2022. Nếu không có ai phản đối tức là đồng thuận, trong trường hợp này anh Bá có ra được thông báo hay không?

 

Kính chúc anh có những ngày Tết ấm áp   

Thuận Dallas-Fort Worth/Texas

NÊN SỬ DỤNG QUỸ TH NHƯ THẾ NÀO CHO HỢP LÝ

Kính gửi anh THT Hoàng như Bá và ban chấp hành.

Kính gửi quý niên trưởng

Kính thưa toàn thể anh em Nha kỹ Thuật

 

Anh em ta còn kẹt bên VN đa số đã già yếu, bịnh tật, sự trợ giúp của anh em hải ngoại rất cần thiết, nhưng nguồn ứng cứu đầu tiên là trông mong vào quỹ Tổng hội, sau đó mới đến đóng góp của những nhà hảo tâm trong và ngoài của Nha kỹ Thuật.

Quỹ TH được chúng ta vun quén hằng năm, nếu được dùng một cách hợp lý thì anh em cũng sẽ đồng tình và chung tay đóng thêm.

Lâu nay tôi không nhận thấy ai có ý kiến gì về vấn đề sử dụng quỹ TH cho hợp lý hơn nữa.

Từ ngày có Lê Hoàng góp tay vào để lo anh em và điều hành quỹ TH, sự điều tiết rõ ràng hơn, mạch lạc hơn mà từ trước đã không có. Tôi mong Lê Hoàng sẽ bỏ ngoài tai những lời ong tiếng ve mà giúp anh em, dù bây giờ Lê Hoàng không còn nhiều thời gian, phải lo làm nuôi con, con còn nhỏ lắm. 

Khó có ai làm được những báo cáo minh bạch như Lê Hoàng đã làm

Tôi luôn luôn ủng hộ Lê Hoàng trong tất cả các lời kêu gọi, hôm nay chúng ta lại có thêm sự góp sức của Phạm Hòa và sự ảnh hưởng rộng khắp của các trang Web của Phạm Hoà, sẽ khiến cho các lần kêu gọi giúp đỡ sau này tốt hơn.

Mấy ngày qua anh em VN gặp nguy cấp và bên này đã đóng góp giúp đỡ nhưng cũng đã gặp điều đáng tiếc, chuyện đã qua, chúng ta cũng không nên để lập lại.

Hôm nay tôi đề nghị quỹ TH nên xuất ra một lần $300 cho mỗi người để giúp ngặt, sau đó anh em tùy vào hoàn cảnh kinh tế của mình mà phụ thêm, người Việt mình thường hay nói: giúp ngặt chớ không giúp nghèo.

Chúng ta cũng không nên kêu gọi anh em đóng góp chung chung rồi chia đều như lần vừa qua vì làm như thế sẽ phân tán mỏng sức lực tài chánh của anh em hải ngoại, đến khi anh em mình bên VN gặp nguy cấp thì bên này đã kiệt quệ.

Chúng ta cũng nên chi cho vòng hoa tang chế $150 như xưa nay vẫn làm, theo tình hình kinh tế chung.

Tôi đề nghị anh em nên cho ý kiến về đề xuất này để thủ quỹ Lê Hoàng dễ dàng làm việc.


 Thuận Austin/Dallas