Sunday, June 22, 2025
Thursday, June 19, 2025
Hôm Nay, Thứ Năm, Ngày 19 Tháng 6 Năm 2025, Là Một Ngày Trùng Hợp 2 Ngày Lễ, Khá Đặc Biệt: Kỷ Niệm Đúng Ngày Quân Lực VNCH và Cũng Là Ngày Nghỉ Lễ Quốc Gia Hoa Kỳ (Tức Ngày Juneteenth!) Ngày Tự Do, Ngày Giải Phóng, Ngày Kỷ Niệm Chấm Dứt Chế Độ Nô Lệ Đối Với Người Mỹ Gốc Phi Tại Mỹ! (Các Cơ Quan Công Quyền, Đều Đóng Cửa, Nghỉ Lễ!) Không Quên, Kính Chúc Quý Vị Hưởng Một Ngày Lễ Vui Vẻ Bên Bạn Hữu, Chiến Hữu và Gia Đình.

Hôm Nay, Đất Nước Hoa Kỳ Mừng Lễ: “Juneteenth!”
-Juneteenth (ghép từ June (tháng Sáu) và nineteenth (ngày thứ 19); tên chính thức: Juneteenth National Independence Day (Ngày Quốc Khánh Juneteenth), còn gọi là Jubilee Day (Ngày Hân hoan), Emancipation Day (Ngày Giải Thoát),
Freedom Day (Ngày Tự do), và Black Independence Day, tức Ngày Độc Lập Người Da Đen) là ngày kỷ niệm chấm dứt chế độ nô lệ đối với người Mỹ gốc Phi tại Hoa Kỳ, được tổ chức vào ngày 19 tháng 6 hàng năm. Xuất phát lần đầu tiên từ thành phố Galveston, bang Texas, phong trào kỷ niệm này bắt đầu lan rộng trên toàn nước Mỹ từ năm 1865.
Hôm Nay, 19 Tháng 6, Kỷ Niệm Đúng Ngày Quân Lực!Về mặt lịch sử, vào khoảng đầu thế kỷ 17, thực dân châu Âu đã thực hiện những cuộc di cư tới một vùng thuộc địa mới tại châu Mỹ (ngày nay là Hoa Kỳ) để sinh sống. Để khai phá nơi đây, họ bắt hàng triệu người da màu châu Phi đi theo làm nô lệ phục vụ. Tới năm 1865, khi chế độ thực dân được phá bỏ sau cuộc nội chiến Mỹ (1861-1865), cùng với việc Tu chính án thứ 13 được chính phủ đương thời thông qua, những người nô lệ gốc Phi bắt đầu được giải phóng khỏi việc bị sử dụng làm công cụ lao động. Để đánh dấu sự kiện, người dân lấy ngày 19 tháng 6 hàng năm kỷ niệm giải phóng. Juneteenth là cách viết tắt của June Nineteenth trong tiếng Anh.Ngày 17/6/2021, tổng thống thứ 46, Joe Biden ký Đạo luật Ngày Độc lập Quốc gia, chính thức đưa Juneteenth trở thành ngày lễ liên ba
-Ngày 19 tháng 6 năm 1965. Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề nhất đối với quốc gia, dân tộc. Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ còn phải lãnh đạo chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh, trên dòng sông nổi sóng lịch sử, cho đến tháng tư năm 75.Từ đó, ngày 19 tháng 6, còn gọi là Ngày Quân Lực. Nói đến quân đội, là phải nói đến Người Lính VNCH, những người đã đem cả cuộc đời, hy sinh một phần thân thể và sinh mạng, để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, trong cuộc chiến tang thương kéo dài trên 20 năm, bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương, do tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.
*Người Lính VNCH “Vì Dân Mà Chiến Đấu, Vì Nước Mà Hy Sinh!”
Kỷ niệm Ngày Quân Lực, hàng triệu người dân miền nam, đã một thời hưởng không khí tự do no ấm, xin kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân các anh linh tử sĩ, hơn 250 ngàn Người Lính VNCH đã nằm xuống, những người con yêu của Mẹ Việt Nam, đặt Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc - Dân Tộc, hơn cả mạng sống của mình. Đã vì dân mà chiến đấu, đã vì nước mà hy sinh.
Người Lính VNCH: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm!
Ngày Quân Lực, để nhớ về Người Lính VNCH, đã một thời chèo chống con thuyền quốc gia, trong cơn bão lửa chiến tranh, Họ đã cắm ngọn cờ Vàng chiến thắng khắp mọi nơi, khắp 4 vùng chiến thuật. Từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến, dài xuống tận mũi Cà Mau, phần đất cuối cùng của quê hương. Tạo những địa danh lẫy lừng trong quân sử, bao nhiêu năm đã qua, cuộc chiến đã chấm dứt, vậy mà mỗi lần nhắc tới, địch vẫn còn run sợ. Sợ cả bộ quân phục!
Cao điểm nhất năm 1972, người lính với những trận chiến lẫy lừng: "Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo những chiến công lẫy lừng, làm cả thế giới nghiêng mình kính phục.
Lá Quốc Kỳ lại tung bay khắp mọi miền đất nước, dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời. Ôi! cũng là lúc Người Lính VNCH, bị đồng minh bỏ rơi, bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH. Quân đội VNCH trở thành một quân lực bất hạnh nhất, trong lịch sử!
*Người Lính VNCH “Tôi Còn Nợ Anh!”
Ngày Quân Lực, với hơn hai mươi năm khói lửa chinh chiến, xương thành núi, máu thành sông! Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem máu xương, cuộc đời của mình, đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc, cho dù phải trả cái giá đắt nhất là hy sinh mạng sống của chính mình.
Hơn hai mươi năm miệt mài gìm súng canh giữ quê hương. Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chiến đấu chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm, dưới nắng ấm thanh bình, trên quê hương mến yêu, mang tên Việt Nam.
Tinh Thần Người Lính VNCH Bất Diệt!
Hôm nay, Ngày quân lực, 50 năm sau, những người lính "bên thua cuộc" sau thời gian cải tạo, tù tội, đọa đày trên chính quê hương của mình, hay lưu lạc khắp nơi, nhưng vẫn đem phần đời còn lại, miệt mài tranh đấu. "Những Người Lính năm xưa" không có bất cứ một tham vọng chức vụ nào. Những Người Lính Già xa quê hương, vẫn còn miệt mài góp công sức của mình, chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, bán nước, “hèn với gặc, ác với dân,” để người dân Việt Nam sớm có được nụ cười "Dân Chủ-Tự Do-Hạnh Phúc" mãi mãi nở trên môi. Cả đời hy sinh, họ chỉ muốn thế.
“Họ là những anh hùng không tên tuổi.
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh.
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước!”
Với ý nghĩa này, hình ảnh cao đẹp của người lính VNCH, luôn luôn sống mãi trong lòng người dân Việt yêu chuộng dân chủ, độc lập, tự do, dù đã qua hơn nửa thế kỷ!
SỬ HÙNG CHIẾU SÁNGMừng ngày quân lực VNCH
Năm mươi năm tưởng Hồ Trường đã cạn
Nào hay chiến y còn rỉ máu oan khiên
Người trai hùng thuở ấy vẫn an nhiên
Niềm tự hào mãi nguyên trên đỉnh nắng
Gót giày anh bùn Xuân Lộc hoen lấm
Tiếng thét xung phong vang dậy trời Nam
Bờ lau khe suối xác thù ngổn ngang
Đại bác xe tăng dịch quân tơi tả
Tiếng súng anh đồi Charlie xối xả
Nhắm tim địch tới viên đạn cuối cùng
Nghe gió hú đáp tiếng gọi núi sông
Viết tên anh vào sử xanh vạn thuở
Bàn chân anh dấu Quảng Trị thành cổ
Chí trai ngất nghễu dựng lại cờ vàng
Khát vọng tự do chiếu sáng ngàn năm
Tuổi trẻ Việt nam vươn vai Phù Đổng
Máu anh nhuộm sàn tàu lửa bỏng
Hoàng Sa đất tổ ai nỡ chia lìa
Dành từng viên đá dựng lai mộ bia
Tổ quốc ghi ơn gia tài của mẹ
Thân xác anh vờn theo ngọn gió
Đại bàng gãy cánh giữa chốn thinh không
Hồn anh lửng lơ mây trắng bềnh bồng
Nợ nước tình nhà thân trai lỗi hẹn
Tên anh ghi khắc lá rừng suối vắng
Việt điểu ngang trời đậm nét sử xanh
Máu nở thành hoa chim Việt hiên ngang
Vòng tay Âu Cơ ngàn năm ngọt ấm..
(Ngô Đức Diễm)
-Trong mục đích tưởng nhớ và vinh danh các Chiến Sĩ VNCH đã hy sinh để bảo quốc an dân, giữ vững Miền Nam tự do, no ấm trên 20 năm và cùng một lòng yểm trợ đồng bào quốc nội, trong cuộc đấu tranh cho quê hương Việt Nam, sớm được tự do, dân chủ, phú cường và không cộng sản.
Ủy Ban Thúc Đẩy Xây Dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ và Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức, cùng phối hợp, để cử hành lễ đặt vòng hoa, trước tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ, trong khuôn viên vườn truyền thống Việt, 1499 Roberts Ave, thành phố San Jose, tiểu bang California. Đúng 10 giờ sáng Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6 năm 2025! Tức sáng thứ 5, tuần này!
Chúng ta, là những người Lính năm xưa, những Cựu Quân Nhân Quân Lực VNCH, phải lưu vong nơi xứ người hơn 50 năm qua. Nhưng trách nhiệm của một quân nhân VNCH vẫn còn đó và phải tiếp tục dù bất cứ và nơi nào, với Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm!
NHÂN NGÀY QUÂN LỰC, TƯỞNG NHỚ…ANH TÔI! CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH VNCH!
-Ngày 13 Tháng 8 năm 1971, trưa hầm hập nóng. Cái nóng của Sài Gòn, hừng hực mái tôn, như chảo lửa đun… sôi. Chiến tranh… khói… khói… lãng đãng mặt người. Trong căn nhà trọ trong hẻm 482 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, mình nằm chịu trận như một con cá mắc cạn, ngóc lên mà thở trong cuộc chiến khốc liệt nầy… thì nhận được thơ anh. Bức thơ nhầu nhĩ, bì thơ là một tờ giấy, người viết chỉ việc viết vào mặt sau, xếp lại, rồi đề địa chỉ ở mặt trước, có in tem sẵn, dán lại, gởi đi cho nó gọn mà những người lính từ mặt trận thường dùng để gởi về thân nhân là ba, má, vợ hay người yêu hoặc mấy đứa em thơ ngây còn ở hậu phương. Thơ anh viết từ ngọn núi Ba Hô nào đó, khoảng 17 cây số đường chim bay về phía Tây Bắc Quảng Trị, án ngữ đường 9 Nam Lào. Ai kiểm soát độ cao nầy là kiểm soát đường chuyển quân phía dưới. Và muốn tấn công, xâm nhập vào Quảng Trị thì phải tìm cách nhổ sạch quân trú phòng ở đỉnh Ba Hô! Anh nói những ngày ở đây thật là gian khổ và ác nghiệt nhưng gian khổ nhứt là đi lấy nước vì địch quân rình bắn sẻ. Anh nói: Gió Lào mùa nầy ác nghiệt cũng không kém mấy thằng Bắc Quân bên kia núi rình bắn lén. Bầu trời trên đầu, ngày lại ngày, không một đám mây, không mưa… khô khốc! Nước!
Đại đội 1, Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến của anh nằm trên đỉnh Ba Hô đó. Anh không biết ngày về vì hành quân liên miên như vậy và đóng chốt ở đây không biết đến bao lâu mới có đơn vị khác đến thay?
Thơ anh đến, chưa kịp trả lời, thì 21 tây, xác anh đã về tới. Người anh bà con bạn dì, trên chiếc xe Honda, mượn của thằng bạn học khác, chở mình lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Chạy trong cái nắng đổ lửa của Sài Gòn mà không nghĩ gì hết. Không tin gì hết. Đầu óc như cứng lại, khô khốc, đặc quánh lại… như cơn gió Lào vi vút, u u… thổi ngoài kia của dãy Trường Sơn.
Xe qua tượng Thương Tiếc, quẹo vào con đường vòng cung. Phía trên đồi là Nghĩa Dũng Đài sừng sững, rồi ngừng lại ở tiền sảnh của Nhà Quàn Liên Đội Chung Sự Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa! Không có ai chỉ dẫn. Như linh tính của tình anh em ruột thịt, mình đến ngay chiếc quan tài hình chữ nhựt màu xanh biển thẫm, đã phủ quốc kỳ. Đầu hòm có một chữ Hán không hiểu nghĩa là gì? Anh bà con đi chung đang học năm thứ hai Văn Khoa nói: “Chữ Thượng nghĩa là trên. Đầu nó nằm đây nè!”
Mặt trước quan tài có đính một tờ giấy. Trên đó viết vài hàng chữ: Cấp bậc: Thiếu Úy. Họ tên: Đoàn Xuân Hòa. Sanh ngày 14 tháng 9 năm 1949. Đại đội Phó, Đại đội 1, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến. Tử trận ngày 15 tháng 8 năm 1971 tại Quảng Trị.
Nằm kế bên anh là Chuẩn Úy Lê Định, sanh năm 1952, sanh quán Huế, cùng chung đơn vị. Phía sau lưng anh là khoảng hai mươi chiếc quan tài nữa, chia làm hai hàng, có một vài cái thuộc Sư Đoàn 5, còn bao nhiêu đều là lính Đại Đội 1 với anh. Sau nầy, nghe kể lại, ngày 15 tháng 8 một trận đánh khốc liệt đã xảy ra trên đỉnh Ba Hô giữa bộ đội quân chánh quy Bắc Việt và Đại Đội của anh. Đại Đội bắn hết đạn, bị tràn ngập. Trận đánh xáp lá cà bằng lưỡi lê đã diễn ra và kết thúc bằng phi cơ phản lực đến ném bom. 24 chiến sĩ Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử tử trận! 24 chiến sĩ ngã xuống và bao nhiêu vành khăn tang đội lên đầu của thân nhân tử sĩ? Nào ai biết được con số chính xác. Nỗi đau người lính không còn đau nữa, đã đền xong nợ nước, mà nỗi đau của cha mẹ, vợ con, anh em của người chiến sĩ thì còn đau mãi đến tận bây giờ!
Quanh quẩn bên chân anh, nhang tàn rồi thắp nhang khác, nến tàn rồi đốt ngọn nến khác. Một cọng chân nhang, cắm vào đó một điếu thuốc thơm! Mời luôn những người đồng ngũ của anh mỗi người một điếu! Hà tiện chi nữa! Hết thuốc, lại dốc hết tiền trong túi ra, xuống câu lạc bộ nhà quàn mua cho anh hút trước khi xác thân các anh về với đất. Phía sau tiền sảnh là một căn phòng tối lù mù, chiếu sáng bằng những ngọn đèn tròn, vàng vọt. Rồi có tiếng trực thăng sơn chữ thập hồng, phầm phập xuống bãi đáp. Hai người lính cứu thương, quân y, bước ra, chuyển từ trong trực thăng xác một người lính thuộc Sư Đoàn 5, phù hiệu ngôi sao trắng và số 5 màu đỏ máu trên tay áo!
Xác tử sĩ nằm trên băng ca, một tay thòng xuống, còn đòng đưa theo nhịp đi của hai người lính đang khiêng… chứng tỏ anh vừa mới chết, xác hãy còn nóng hổi, chưa lạnh, nên chân tay hãy còn dịu nhỉu. Quần áo trận của anh vẫn còn ướt sũng và vấy đầy bùn đất! Xác anh được mang vào phòng và những người lính Quân Nhu thuộc Liên Đội Chung Sự xúm lại làm phần việc của mình trong im lặng. Trước hết dùng kéo cắt quần áo trận ra để tắm rửa cho tử sĩ lần cuối. Cái vòi nước xịt vào khuôn mặt giờ hơi tai tái nhưng vẫn còn lật qua lật lại được theo tia nước. Sau đó là lau khô xác, hớt tóc cho ngắn gọn, dùng phấn và son tô lại khuôn mặt, môi người tử sĩ để thân nhân nếu có lên nhìn mặt cho đỡ tủi. Mặc cho người lính vừa ngã xuống một bộ ka ki vàng còn hồ cứng. Công đoạn cuối cùng là đổi cáng. Hai chiếc thẻ bài đeo trên ngực tử sĩ được rứt ra. Một sẽ giao lại cho thân nhân và một gắn trên đầu hộc tủ, một trong khoảng ba trăm cái của phòng lạnh, để biết mà mở ra cho thân nhân lên nhận diện Năm giờ chiều thì Ba, Má dẫn mấy đứa em từ Mỹ Tho lên. Lúc đó thấy Má đi không nổi nữa. Chân như khuỵu xuống; phải tựa vào vai Ba mà bước! Mấy đứa em còn nhỏ quá nhìn quanh… ngơ ngác. Thấy Má như vậy, nước mắt mình bây giờ, trưa tới giờ có khóc được giọt nào đâu, mới trào ra như suối:
“Ảnh nằm đây nè! Má!”
Má chỉ kêu: “Con ơi!” Rồi khóc! Nghe thảm làm sao! Ba chỉ im lặng, không nói gì, mặt nhăn nhúm lại!
Đêm xuống, Ba, Má và mấy đứa em vô nhà khách nghỉ để bình minh, rạng sáng mai đưa xác anh về quê cũ. Mình không ngủ được, mặc chiếc áo ba-đờ-xuy cho đỡ lạnh. Trên đồi, gió nhiều quá, thổi u…u. Mình ngồi bó gối, dưới chân anh. Nhang tàn thắp khuya. Thuốc tàn lại đốt. Tiếng con vạc sành bám trên nóc sảnh lâu lâu lại rơi xuống, đập cánh xè xè, nghe như hơi người chết từ những chiếc quan tài chập chờn ánh nến, thoát ra.
Nhìn lên đồi cao nơi mộ ông Tướng Đỗ Cao Trí đèn thủy ngân sáng choang. Nhìn xuống dưới, những hàng bia mộ người chết trận… lặng im… chìm trong tối. Dọc đường từ nhà quàn vào khu gia binh của Liên Đội Chung Sự, những mảnh ván quan tài đang đốt dở, cháy leo lét trong gió. Những mảnh ván quan tài đang cháy dở là do việc thân nhân mướn những người thầu tư nhân rửa xác tử sĩ lại để còn nhìn mặt lần cuối. Hòm cũ bỏ đi, sau đó xác được đặt vô cái hòm kẽm mới, hàn chì lại để ngăn mùi tử khí không thoát được ra ngoài, có người nằm lại nghĩa trang cùng đồng đội, có người được mang về quê an táng.
Ba không muốn khui nắp quan tài anh ra nữa, không phải sợ tốn tiền. Mà ba sợ ảnh chết như vậy chắc không còn nguyên vẹn gì… mà nếu Má nhìn thấy thì làm sao chịu cho nổi!
Hai là hy vọng người tử sĩ nằm đó không phải là xác của con mình. Một hy vọng hão huyền là có thể ngày nào đó anh sẽ về, gặp lại Ba, gặp lại Má chăng? Rõ ràng hy vọng đó chỉ là ảo vọng; dù vậy Ba vẫn còn ráng nắm níu, ráng mà bám víu theo?!
Sáng hôm sau, một bán tiểu đội lính, 6 người, ông Trung Úy già, Trưởng Hậu Cứ Tiểu Đoàn chỉ huy và chiếc GMC mười bánh đến! Những người lính kê vai, vác, đưa chiếc quan tài lên xe! Và anh về quê cũ. Tiếng kèn đồng nghe u uất. Trước đầu xe có tràng hoa cườm và băng vải tím.
Người yêu anh, chị Loan, y tá Bệnh Viện Lê Hữu Sanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nức nở: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!” lúc di quan! Tình nồng thắm của anh chị như bọt nước đã đành tan theo vận nước sau đó.
Lại theo xác anh. Xe qua những đường phố Sài Gòn nhộn nhịp. Người lính tử trận… lẳng lặng đi qua. Có người dừng lại, chào kính xác người chiến sĩ. Có người dừng lại, ngả nón cúi đầu! Đa số vẫn tiếp tục đi. Và xe chở xác vẫn đi!
Mang anh về lại quê nhà, Mỹ Tho… nơi, anh vì nước phải bỏ nó mà đi chỉ mới có 4 năm! Mình không nghĩ được gì hết! Cuộc chiến tranh nầy ai gây ra ư? Tại sao vậy? Làm sao cắt nghĩa được tham vọng của một lũ điên? Chỉ biết một điều là một thanh niên mới vừa xong trung học là lên đường nhập ngũ, từ Mỹ Tho ra tận Miền Trung gió Lào khô khốc thổi, rồi ngã xuống ở Đỉnh Ba Hô nào đó của Quảng Trị để ngăn chận Bắc Quân tràn vào thị xã.
Ngày 25 tháng 8, ôm tấm di ảnh của anh, thằng em kế, thứ năm, nối bước theo sau, trên hai tay là chiếc gối nhỏ, màu vàng viền đỏ, màu cờ, có cặp lon trung úy và chiếc bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng kèm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, đưa anh đến huyệt mộ! Thòng dây đưa quan tài anh xuống kim tĩnh mà mấy ông thợ hồ vừa mới xây xong, xi măng chỉ vừa kịp khô nước.
Ba loạt tiếng M-16 bắn chỉ thiên, chào vĩnh biệt người chiến sĩ.
Lại tiếng kêu khóc của người yêu anh ở giờ hạ huyệt: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”
Đất lấp lại! Và năm ấy mình vừa 20 tuổi. Ngày chôn anh, ngày 25 tháng 8, là ngày sinh nhựt của mình!
(Khuyết Danh)
VTLV MỪNG NGÀY QUÂN LỰC VNCH 19/06
VĂN THƠ Thung Lũng phố Hoa Vàng
LẠC VIỆT - đồng hương đã họp đoàn
MƯỜI CHÍN - Việt Nam thời dũng mãnh
THÁNG JUNE (06)- Quân Lực thuở huy hoàng
Nhớ ơn hào kiệt vào nguy hiểm
Tưởng niệm anh hùng vượt khổ gian
Chiến đấu không sờn quên tính mạng
Tận cùng phút cuối, giữ giang san.
(Phương Hoa - BBT VTLV - 19/06/2025)
MỘT CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG: CUỘC SỐNG CỦA MỘT THƯƠNG BINH VNCH.
Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”Tôi hỏi tiếp:
– “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.
Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì.
Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.
Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.
Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết.
Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.
Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.
Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…
Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.
Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
(Minh Tạo)
Người Chiến Sĩ Không Quân VNCH, Vào Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến!
***
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa
thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ,
Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng
ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử
Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu
có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát
(Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)
Sunday, June 15, 2025
Ngày của Cha - Phương Lâm / Papa Paul Anka
Lò than sưởi ấm đêm Đông trường
Ánh sao Bắc Đẩu soi mọi lối
Cha nắm tay con mọi nẻo đời
Con là thuyền nhỏ lạc biển khơi
Cha là Hải đăng chiếu sáng ngời
Đưa con lướt sóng, vượt giông bão
Hạnh phúc tình Cha, rộn tiếng cười
Hôm nay ngày lễ nhớ về Cha
Ánh mắt yêu thương
Răn dạy ngọc ngà
Là Thái Sơn, là biển cả
Ngòi viết đơn sơ, làm sao diễn tả
Tình Cha của cả cuộc đời con
Father Day 6/15/2025
Phương Lâm
To try to make ends meet
To see that we would eat
Keep those shoes upon my feet
And every night, my papa would take me
Tuck me in my bed
Kiss me on my head
After all my prayers were said
But through it all
Together, we were strong
He was strong
The times were rough
And Papa, he was tough
And Mama stood beside him all along
Time just flew on by
The years began to fly
They aged and so did I
Papa knew and deep down, so did she
So did we
And when she died
Papa broke down and he cried
And all he could say was, "God, why her? Take me"
He never went upstairs because she wasn't there
Then one day, my Papa said
"Son, I'm proud of how you've grown"
He said, "Make it on your own
And don't worry, I'm okay alone"
And places you must see"
His eyes were sad as he
As he said goodbye to me
Papa's words ring true
He said, "Children live through you
And they grow, they leave you too"
I remember every word that Papa used to say
I kiss my kids and I pray that they'll think of me
That way, some day
Papa Paul Anka
Hoa Quỳnh
Tiếng tích tắc rảnh mảnh gõ trên tường
Ánh đèn khuya mờ nhạt phủ đầy sương
Đang ru giấc con đường đêm tỉnh lặng
Chạm môi mềm, mùi nồng thơm cay đắng
Cạn chén này, đợi ngắm đóa Quỳnh hoa
Thoảng mùi thơm, nụ xinh xinh òa vỡ
Canh sang canh đơn lẻ giữa đêm dài
Rồi ngày mai, khi mặt trời trở lại
Cõi lòng ai thương mãi đóa hoa Quỳnh
Phương Lâm
Friday, June 13, 2025
Biển Chiều
Cuối trời chim nhạn vọng tiếng buồn
Thì thầm biển gọi từng cơn sóng
Dang tay nhặt lại chút chiều buông
Chim biển về đâu giữa mênh Mông
Nước xanh lấp lánh chiếu mây hồng
Hằn sâu dấu ấn trên bờ cát
Tranh chiều khập khiễng nét bâng khuâng
Vi vu thông hát bản tình ca
Mây trời tô đậm cảnh chiều tà
Từng cơn sóng vỗ, từng cơn sóng
Biển chiều gió lộng một mình ta
Everett 12/6/2025
Phương Lâm
Monday, June 9, 2025
Lôi Hổ Ngô Xuân Mân Chiến Đoàn 1 - Nhập Viện Cần Giúp Viện Phí
Tk số: 0051000552396 VIET COMPANK
Địa chỉ: Hẻm 44 Xuân Diệu hải cảng tp Qui Nhơn